Chùa Thiên Quang

Chùa Thiên Quang
Lịch Sử
Khởi Công Thế kỉ 20
Hoàn Thành Không rõ
Huyện Hóc Môn

Chi Tiết Về Chùa Thiên Quang

Chùa Thiên Quang Chi Tiết Cấp Tỉnh

Sự hình thành và quá trình bảo quản cho đến ngày nay

Chùa Thiên Quang được tạo lập đầu thế kỷ XX, trực thuộc phong thiên thai thuyền giáo tông của Tổ sư Huệ Đăng, do Hòa thượng Thích Trí Quãng làm chứng minh đạo sư, Hòa thượng Thích Giác An làm Trưởng ban thừa kế Tông Phong thuộc hệ phái Bắc Tông, Hòa thượng Thích Minh Tâm (pháp danh Lê Văn Nghi) là Trưởng tử của Tổ sư Huệ Đăng (Chùa Thiên Thai, Bà Rịa) đứng ra xây dựng.

Chùa tồn tại đến nay gần 100 năm, trụ trì chùa qua các đời như sau:

Từ năm 1929 - 1959, Hòa thượng Thích Minh Tâm.

Từ tháng 7 năm 1959 đến năm 1991, Hòa thượng Thích Tịnh Quang (pháp danh Trần Văn Năm) là trưởng tử của Hòa thượng Thích Minh Tâm.

Từ năm 1992, vì tuổi cao sức yếu, Hòa thượng Thích Tịnh Quang giao lại cho cháu ruột là Đại đức Thích Tịnh Đức (pháp danh Trần Văn Chốn) làm trụ trì chùa cho đến nay.

Nguồn gốc di tích chùa Thiên Quang

Năm 1940, chùa là nơi hội họp chuẩn bị cho Khởi nghĩa Nam kỳ. Năm 1945 tham gia giành chính quyền, Chùa Thiên Quang là thành viên của Mặt trận Việt Minh, tích cực đóng góp ủng hộ kháng chiến chống Pháp. Khi cách mạng nổ ra, chùa trở thành nơi quy tụ những thanh niên yêu nước tham gia giành chính quyền về tay Nhân dân, là một trong những cơ sở cách mạng của Phật giáo cứu quốc Nam Bộ và Phật giáo cứu quốc tỉnh Gia Định.

Hòa thượng Thích Minh Tâm đã truyền trao chánh pháp và lòng yêu nước lại cho Trưởng tử Hòa thượng Thích Tịnh Quang. Năm 1972 - 1975, Thượng tọa Tịnh Quang cho ông Lê Quốc Sử mở trường chính trị ngắn hạn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đảng viên nội thành ra học tập tại chùa. Chùa còn có hầm bí mật làm nơi ẩn trú và là nơi cất giữ tài liệu, vũ khí, nhờ vậy một số Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, tăng ni, trí thức, sinh viên, học sinh không có điều kiện ra chiến khu học tập, có nơi học tập an toàn tại ngoại thành. Để phục vụ cho chiến dịch Hồ Chí Minh, tăng chúng Chùa Thiên Quang hết lòng làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ và là nơi tiếp nhận các cán bộ chiến khu về trú đóng tại chùa.

Ông Lê Quốc Sử - cán bộ phụ trách Phật giáo nội thành thuộc cánh II Phân ban Nam y tư Sài Gòn Gia Định tổ chức nhiều lớp học tại Chùa Thiên Quang cho tăng ni, Phật tử yêu nước về tình hình nhiệm vụ trước, trong và sau giải phóng. Một số cán bộ qua lớp học đã trở thành đảng viên như: Trần Văn Thế, Hồ Minh Châu, Định Châu, Võ Văn Tới, Hòa Thượng Thích Pháp Dõng, Hòa Thượng Thích Bửu Ý, Hòa Thượng Thích Giác Quang, Hòa Thượng Thích Quãng Kim, Hòa Thượng Thích Trí Huệ, Hòa Thượng Thích Giác An, Thượng tọa Thích Bửu Minh, Phật tử Nguyễn Ngọc Châu...

Khảo tả sơ lược di tích

Chùa Thiên Quang tọa lạc trên một gò đồi cao, xung quanh được xây dựng tường gạch, mặt tiền chùa quay về hướng đông, nơi đây thờ “Đức Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật niết bàn” dài khoảng 3 mét và Đức Phật Di Lặc. Từ ngoài cổng nhìn vào là khuôn viên các ngôi mộ, có bảng “Thiên Quang bửu tháp” gồm 6 mộ tháp của các Sư Thầy đã viên tịch.

Bên trái khuôn viên chùa là các ngôi mộ Phật tử có công lớn với Tam Bảo, phía sau có 3 ngôi tháp nhỏ của chư ni tu tại chùa đã viên tịch. Mặt tiền chính điện trên cao có ghi dòng chữ “Thiên Quang Tự” chính giữa và hai bên vách mặt tiền chính điện chạm rồng và lân bằng sành sứ với đường nét thanh thoát, thẩm mỹ. Tiền điện là nhà mái ngói, nền lót gạch bông, bài trí tại tiền điện gồm: bàn thờ hộ pháp, bàn thờ Đức Chuẩn Đề, Tiêu Diện ở bên trái là bàn thờ bằng gỗ cao 1,2 mét.

Chính điện là nhà cột, kèo bê tông đúc giả ngói. Chính điện là nơi trang trọng nhất, chính giữa chính điện thờ Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni, tầng dưới thờ Đức Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát.

Hầm bí mật ở góc cửa bên trái chính điện là nơi đặt bàn thờ Địa Tạng. Năm 1996, hầm bí mật trong chính điện đã được lấp, các hiện vật hiện hữu gắn với chùa được trưng bày, thờ cúng gồm: hai bức hoành phi, một số bài vị, chuông đồng, mõ, trống, bàn thờ, tủ (bằng gỗ) và một số tượng có giá trị nghệ thuật điêu khắc, thẩm mỹ.

Chùa dành một nơi trang nghiêm để thờ các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh. Khi đến chùa cúng bái, mọi người được nhắc nhở để tưởng nhớ đến những người đã ngã xuống vì hòa bình, độc lập cho Tổ quốc hôm nay. Đây cũng là cách giáo dục cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau, biết được truyền thống yêu nước của các bậc cha anh, qua đó thế hệ trẻ tiếp tục phát huy tinh thần tốt đẹp của dân tộc ta.

Hàng năm, Chùa Thiên Quang tổ chức lễ cúng lớn vào ngày rằm tháng 7 âm lịch. Đây là ngày giỗ Tổ sư nhằm tưởng nhớ đến vị Tổ sư có công xây dựng chùa. Vào ngày này tăng ni, Phật tử và bá tánh khắp nơi đến chùa dự lễ. Ngoài ra, Chùa Thiên Quang còn tổ chức lễ cúng vào các ngày rằm tháng giêng, tháng 7, tháng 10 âm lịch, ngày giỗ Húy Kỵ ngày mùng 01 tháng 7 âm lịch.

Kế tục sự nghiệp vẻ vang của các vị Tổ sư, Hòa thượng Thích Tịnh Quang cùng các tăng ni, Phật tử Chùa Thiên Quang tiếp tục nỗ lực, phấn đấu để bảo vệ, tu bổ và phát huy giá trị lịch sử của ngôi chùa. Chùa Thiên Quang là cơ sở cách mạng vững chắc trong hai thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, là nơi lưu giữ, bảo tồn những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Với những giá trị tiêu biểu nêu trên, ngày 27 tháng 7 năm 2007, Chùa Thiên Quang được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số: 3286/QĐ-UBND xếp hạng công nhận Di tích lịch sử cấp Thành phố.

Phát huy giá trị di tích lịch sử Chùa Thiên Quang là thiết chế văn hóa Phật giáo, Ban trị sự (trụ trì) Chùa cùng tăng ni, Phật tử tiếp tục phấn đấu tạo nên nét đẹp truyền thống “tốt đạo - đẹp đời”, là những tấm gương sáng về đức độ, từ bi để Phật tử, bá tánh noi gương và học tập.