Đình Tân Thới Tứ

Đình Tân Thới Tứ
Lịch Sử
Khởi Công Không rõ
Hoàn Thành Không rõ
Huyện Hóc Môn

Chi Tiết Về Đình Tân Thới Tứ

Đình Tân Thới Tứ Chi Tiết Cấp Tỉnh

SỰ KIỆN LỊCH SỬ VÀ HÌNH THÀNH CỦA ĐÌNH

Theo sách “Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh” tập II văn hóa năm 1988, địa danh “Tân Thới Tứ Thôn” cùng với Tân Thới Nhứt Thôn, Tân Thới Nhì Thôn, Tân Thới Tam Thôn được hình thành năm 1818 thuộc Tổng Dương Hòa Thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (còn có tên gọi là xứ Thanh Thủy - xóm Nước Trong).

Năm 1836, Tân Thới Tứ Thôn thuộc Tổng Dương Hòa Thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Năm 1885 - 1889, Tân Thới Tứ Thôn thuộc Tổng Long Tuy Thượng, huyện Bình Long, hạt Gia Định. Năm 1910, Tân Thới Tứ Thôn thuộc Tổng Dương Hòa Thượng, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định. Năm 1944, Tân Thới Tứ Thôn thuộc Tổng Dương Hòa Thượng, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định. Năm 1972 thuộc xã Thới Tam Thôn, quận Hóc Môn, thành phố Sài Gòn. Năm 1975 đến nay thuộc ấp Thới Tứ, xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo các nhà nghiên cứu và lời kể của các vị kỳ lão địa phương, lúc mới thành lập, đình làng Tân Thới Tứ xây dựng quy mô nhỏ, kiến trúc bằng tre lá, cây gỗ đơn sơ, tọa lạc trong khu rừng nguyên sinh cổ thụ trên gò đất cao.

Ngày 29 tháng 11 năm Tự Đức thứ 5 (1852), Vua Tự Đức ban sắc cho Thần Thành hoàng bổn cảnh Thôn Tân Thới Tứ. Như vậy, Đình Tân Thới Tứ được xây dựng trong khoảng thời gian năm 1818 cho đến trước năm 1852 tức là đình đã có cách nay gần 200 năm với lý do yếu tố là có đình rồi mới được sắc phong.

Đến năm 1914, ông Nguyễn Văn Phú (tức Cổ Phú) đứng ra vận động quyên góp tiền bạc trùng tu đình với kiến trúc cột kèo gỗ, mái lợp ngói âm dương.

Qua hai thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đình Tân Thới Tứ là nơi đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ cách mạng như: ông Nguyễn Văn Cưu (Mười Kỳ Đà), Võ Đức Lập (Tư Cụt), Nguyễn Văn Hia, ông Ba Hát, Văn Cành, Ba Theo…..

KIẾN TRÚC CỦA ĐÌNH

Đình Tân Thới Tứ có tổng diện tích khoảng 4.078 m2, được xây dựng kiến trúc tổng thể hình chữ L ngược, kiểu tứ trụ ba gian hai chái giống như nhiều ngôi đình làng trên địa bàn huyện Hóc Môn. Toàn bộ mái của ngôi đình gồm Võ Ca, chính điện, hậu điện, nhà kho, nhà bếp đều được lợp bằng ngói âm dương, các đầu đao của mái đình được xây chặn thẳng (mái xuôi).

Trên nóc mái của Võ Ca và chính điện đều gắn hình tượng “Lưỡng long tranh châu” bằng gốm. Võ Ca có kiến trúc ba gian hai chái được kết cấu liên hoàn và vững chắc, có các cặp liễn đối bằng gỗ treo ở các hàng cột. Khi bước vào bên trong đình, bình phong Thần Hổ được xây dựng ở giữa sân trước mặt tiền đình. Tượng Hổ được đắp nổi bằng xi măng với cảnh vật xung quanh là phong cảnh núi đá, rừng cây, trên mặt bình phong có hàng chữ Hán "Thụy khí thống kim ưởng; Linh quang uy mãnh Hổ" (Quàng cổ kim ngân tỏa điềm lành; Uy danh mãnh Hổ sáng hiển linh). Mặt sau bình phong Thần Hổ được đắp nổi hình tượng Long - Mã cũng có hàng chữ Hán "Thanh long thọ chí phò quốc thái; Mã trung nghĩa khí hộ dân an" (Rồng xanh bất tử phò non nước; Nghĩa khí ngựa trung giúp Nhân dân).

  Mặt tiền của đình được xây dựng hai cột to bằng xi măng, xung quanh hai cột đắp nổi hình tượng rồng mây (Long - Vân). Phần trên của mặt tiền gắn bức "Lưỡng long tranh châu", ông Nhật, bà Nguyệt bằng xi măng cốt sắt.

Bên trái bình phong Thần Hổ là miếu thờ Thanh Long với hàng chữ Hán "Hiển anh linh lợi cập hậu thế; Hiện uy vũ chức nhậm tiên phong" (Hiển hách anh linh, đem lại lợi tức cho đời sau; Lẫy lừng uy vũ, luôn đảm nhận vai trò tiên phong).

Bên phải là đàn thờ Thần Nông, theo quan niệm của cư dân nông nghiệp thì Thần Nông là ông Tổ của nghề Nông. Nhân dân thờ cúng Thần Nông với mục đích cầu mong cho mùa vụ bội thu.

Chính điện với kiến trúc ba gian hai chái được kết cấu liên hoàn, vững chắc. Bên trái và bên phải của chính điện được gọi là Đông lang và Tây lang, đây là nơi thờ cúng chủ yếu của đình bao gồm ba hương án: chính giữa là hương án thờ Thần Thành hoàng bổn cảnh với hàng chữ Hán "Bổn cảnh Thành hoàng chính thần nguyên tặng Gia Quảng hậu Chính trực Hựu thiện Đôn ngưng tôn thần", bên trái là hương án với hàng chữ Hán "Đại càng quốc gia Nam hải tứ vị thánh vương Tân Thới Tứ" (bốn vị thánh vương của Thôn Tân Thới Tứ), bên phải là hương án với hàng chữ Hán "Đương cảnh chính vị Thành hoàng đại vương Tân Thới Tứ" (chính vị của đại vương Thành hoàng Thôn Tân Thới Tứ); ba khám thờ bằng gỗ với kỹ thuật chạm thủng, chạm nổi đề tài tứ linh tinh tế: chính giữa là khám thờ Thần Thành hoàng bổn cảnh, bên phải khám thờ Thần Thành hoàng bổn cảnh là khám thờ Tả ban, bên trái là khám thờ Hữu ban. Giữa Võ Ca và chính điện là hương án thờ di ảnh Bác Hồ.

Phía sau Chính điện là Hậu điện được kết cấu liên hoàn và vững chắc, phát triển ra bốn phía tạo thành kiến trúc ba gian hai chái, chính giữa Hậu điện là khám thờ Tiền hiền và Hậu hiền. Hậu điện là nơi được sử dụng để đãi khách vào các dịp lễ Tết hàng năm, giáp với Hậu điện là nhà kho và nhà bếp, là khu vực dùng để chứa vật tư của đình gồm bàn ghế, chén đũa, nồi chảo và là nơi nấu ăn phục vụ vào các dịp lễ Tết hàng năm của đình.

Đình Tân Thới Tứ còn thể hiện được kiến trúc nghệ thuật và phong cảnh của đình với những hoành phi, liễn đối, bao lam được chạm khắc nổi, thủng, chìm với các đề tài Tứ Linh “Long, Lân, Quy, Phụng”, chim, hoa rất tinh tế, nghệ thuật.

Những hiện vật trang trí thờ cúng có giá trị về lịch sử như: chiêng đồng, mõ gỗ, trống, dàn lỗ bộ đồng, kiếm bạc; hiện vật có giá trị nghệ thuật như: lư đồng, hoành phi gỗ, hương án gỗ, liễn gỗ, bao lam gỗ, cặp hạc đứng trên lưng rùa, bàn lễ gỗ.    

Trong việc bảo vệ và quản lý, Đình Tân Thới Tứ vẫn do Nhân dân đề cử ra Ban trị sự để bảo vệ và quản lý. Hàng năm vào dịp lễ hội Kỳ Yên (từ 14 đến 16 tháng 3 âm lịch), Ban trị sự Đình tổ chức lễ hội theo truyền thống dân gian.

Với những giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật, Đình Tân Thới Tứ được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 326/2003/QĐ.UB ngày 31 tháng 12 năm 2003 xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Thành phố Đình Tân Thới Tứ.

Đây là niềm tự hào, vinh dự cho Ban trị sự Đình và Nhân dân huyện Hóc Môn luôn phấn đấu giữ gìn, nêu cao tinh thần đoàn kết, tô đậm nét truyền thống văn hóa quý báu và cùng phát huy giá trị di tích của Đình ngày càng tốt đẹp hơn.